Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường - MAE), cho biết quản lý an toàn thực phẩm hiện được giao cho ba bộ: Y tế, Công Thương và MAE.
Trong lĩnh vực trồng trọt, khâu sản xuất là khâu quan trọng nhất để đảm bảo an toàn thực phẩm. Việt Nam có khoảng 10 triệu hộ nông dân, với 1,15 triệu ha rau và 1,3 triệu ha cây ăn quả. Nguồn cung này không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu, khiến chất lượng sản phẩm trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả người tiêu dùng trong nước và thị trường quốc tế.
Tại hội thảo “Giải quyết vấn đề ‘Rau không an toàn’ trong trường học và siêu thị” tổ chức ngày 24/9, Tạ Văn Tường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, lưu ý nhu cầu rau tại Hà Nội đã đạt 1,3 triệu tấn mỗi năm.
Tuy nhiên, diện tích trồng rau của thành phố chỉ rộng 33.000 ha, sản xuất khoảng 735.000 tấn mỗi năm, đáp ứng 60% nhu cầu của người tiêu dùng.
Hà Nội đã sớm ưu tiên phát triển các vùng sản xuất rau an toàn nhưng diện tích rau được chứng nhận VietGAP hiện chỉ có 400 ha.
Về sản xuất rau VietGAP, ông Nguyễn Tuấn Hồng, Hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ Rau an toàn Bắc Hồng (Hà Nội) cho biết, hợp tác xã được thành lập năm 2002 với 60 xã viên, hiện chỉ có 5 ha rau được chứng nhận VietGAP.
Theo ông Hồng, chi phí sản xuất rau VietGAP cao do chi phí thuê đất, nhân công. Đầu tư hệ thống nhà kính có thể lên tới hàng tỷ đồng nhưng sản xuất mang lại lợi nhuận rất ít. Với 30 ha rau an toàn, thách thức vẫn còn lớn. Nông dân ngại ghi nhật ký sản xuất nên hợp tác xã đã thành lập tổ 10 hộ để giám sát chéo việc tuân thủ.
Việc tiếp cận thị trường thậm chí còn khó khăn hơn vì sản phẩm phải qua trung gian, dẫn đến lợi nhuận của hợp tác xã thấp.
Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nay là MAE, đã ban hành các quy định và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.
Tuy nhiên, theo khảo sát kéo dài 5 năm công bố vào năm 2024, tổng diện tích trồng được chứng nhận VietGAP chỉ là 150.000 ha cho 6 nhóm cây trồng. Trong đó, rau chiếm hơn 8.000 ha trong tổng số 1,15 triệu ha, nghĩa là chưa đến 1% được chứng nhận VietGAP.
Ngay cả khi bao gồm các chứng chỉ khác như GlobalGAP, diện tích trồng rau được chứng nhận cũng chỉ là 8.400 ha. Ông Dương thừa nhận đây là con số khiêm tốn so với quy mô sản xuất và nhu cầu tiêu dùng hiện nay. Đáng chú ý, rau quả, mặt hàng thiết yếu hàng ngày của người tiêu dùng, lại có tỷ lệ sản xuất theo tiêu chuẩn cực kỳ thấp.
Ngoài VietGAP, còn có cam kết an toàn do nông dân ký trực tiếp nhưng vẫn ở quy mô nhỏ và manh mún, không mang lại những thay đổi cơ bản cho sản xuất rau quả an toàn.
Trước tình hình này, ông Nguyễn Văn Mười, Phó tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cảnh báo cần có biện pháp mạnh mẽ hơn để kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường, đặc biệt là rau quả.
Người tiêu dùng lo ngại nhất về dư lượng hóa chất nên cơ quan bảo vệ thực vật cần phải có trách nhiệm cao hơn. Thuốc bảo vệ thực vật phải được quản lý theo đơn, không được bán tự do. Tùy thuộc vào loại hóa chất, thời gian cách ly có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Nếu nhà sản xuất thiếu nhận thức thì người tiêu dùng sẽ chịu thiệt.
Về thị trường, ông Mười lưu ý, chợ truyền thống và hệ thống siêu thị có thể quản lý được, còn các cửa hàng bán lẻ nhỏ lẻ khó kiểm soát. Vì vậy, cần phát triển các điểm bán hàng tập trung để thuận tiện cho việc quản lý và giảm thiểu rủi ro cho người tiêu dùng. Việc bán hàng không được kiểm soát trên vỉa hè, đường phố phải được hạn chế. Hoạt động bán lẻ cần quy định chặt chẽ hơn và được quan tâm nhiều hơn.
Các cơ sở sản xuất cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn trước khi sản phẩm của họ được tung ra thị trường. Một nông dân có thể cung cấp hàng chục, thậm chí hàng trăm tấn rau mỗi năm nhưng vẫn chưa có biện pháp quản lý an toàn đầy đủ. Đây là một lỗ hổng nghiêm trọng cần được giải quyết, Mười nhấn mạnh.
Nguyễn Quý Dương lưu ý rằng sản xuất quy mô nhỏ là một thực tế khó thay đổi ở Việt Nam trong thời gian ngắn. Vì vậy, giải pháp then chốt là khuyến khích nông dân tham gia các tổ nhóm, hợp tác xã để xây dựng thương hiệu chung, gắn với mã vùng trồng, đóng gói, truy xuất nguồn gốc. Sản phẩm có thể được bán ở chợ truyền thống, siêu thị hay các kênh bán lẻ hiện đại nhưng phải đảm bảo chất lượng và trách nhiệm của người sản xuất.
Để đạt được điều này, cần có sự kết hợp của nhiều biện pháp đồng bộ, bao gồm cơ chế giám sát mạnh mẽ, biện pháp trừng phạt mạnh mẽ, liên kết sản xuất-tiêu dùng và tăng cường truyền thông để thay đổi nhận thức của cả người sản xuất và người tiêu dùng.
Tam An